You are here

Phát triển vệ tinh “made in Vietnam”

Để chinh phục được không gian vũ trụ, việc làm chủ công nghệ vệ tinh là điều tất yếu. Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ (KHCN), xu thế kích thước của vệ tinh ngày càng thu nhỏ, thời gian chế tạo ngắn hơn, yêu cầu công nghệ cũng dần cụ thể hơn, đây chính là cơ hội cho các quốc gia tiềm lực kinh tế và trình độ KHCN còn hạn chế có thể tham gia vào lĩnh vực này. Nắm bắt được xu thế đó, từ năm 2007, Việt Nam đã lựa chọn hướng làm chủ công nghệ vệ tinh cỡ nhỏ và cho đến nay đã đạt được những thành tựu nổi bật.

Vì sao chúng ta lựa chọn làm chủ vệ tinh cỡ nhỏ?

Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ (PGS, TS) Phạm Anh Tuấn, Tổng giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam (VNSC), Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Việt Nam khó có thể nghiên cứu mọi lĩnh vực liên quan đến KHCN vũ trụ và làm chủ công nghệ chế tạo tất cả loại vệ tinh, bởi lĩnh vực này chúng ta tiếp cận muộn so với các nước trên thế giới, tiềm lực kinh tế cũng như trình độ KHCN của ta còn hạn chế. Tuy nhiên, chúng ta có thể tập trung phát triển và chế tạo vệ tinh cỡ nhỏ, ứng dụng ảnh vệ tinh sao cho hiệu quả nhất. Công nghệ vệ tinh quan sát trái đất là một trong những công nghệ tốt nhất, ảnh hưởng sâu rộng nhất trong các ứng dụng của công nghệ vũ trụ, góp phần hỗ trợ các mục tiêu phát triển bền vững của một quốc gia được đưa ra bởi Liên hợp quốc.

Mặt khác, Việt Nam nằm trong số những quốc gia chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu, thể hiện ở thiệt hại khoảng 1% GDP mỗi năm do thiên tai, tương đương khoảng 3,5 tỷ USD. Ảnh vệ tinh giúp kịp thời cảnh báo chính xác hơn tình trạng bão, lũ, ngập... từ đó giúp giảm thiệt hại về người và giảm 10% thiệt hại kinh tế. Ngoài ra, vệ tinh quan sát trái đất còn hỗ trợ giám sát nông nghiệp, tài nguyên, giám sát lưu lượng nước, lũ lụt, giám sát hàng hải, quy hoạch lãnh thổ, nhất là trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Do đó, Chính phủ đã định hướng vào phát triển và ứng dụng vệ tinh cỡ nhỏ, từng bước xây dựng chùm vệ tinh nhỏ quan sát trái đất của Việt Nam. “Với cách tiếp cận này, trong thời gian tới, Việt Nam có thể tiệm cận được công nghệ vũ trụ của thế giới và sớm làm chủ công nghệ chế tạo vệ tinh”, PGS, TS Phạm Anh Tuấn kỳ vọng.

Các kỹ sư của Trung tâm Vũ trụ Việt Nam (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) chế tạo vệ tinh NanoDragon. Ảnh do Trung tâm Vũ trụ Việt Nam cung cấp

Những “rồng nhỏ” trên không gian

PGS, TS Phạm Anh Tuấn chia sẻ: Quá trình chế tạo vệ tinh cỡ nhỏ của Việt Nam bắt đầu từ năm 2007 với vệ tinh PicoDragon và được chế tạo hoàn toàn trong nước. Thời điểm đó, hầu như các thiết bị vệ tinh phải tự chúng ta phát triển, chức năng của vệ tinh cũng rất đơn giản. Sau nhiều năm nghiên cứu, chế tạo cùng với sự giúp đỡ của Cơ quan nghiên cứu và phát triển hàng không vũ trụ Nhật Bản (JAXA), các kỹ sư của Việt Nam đã chế tạo thành công vệ tinh siêu nhỏ “made in Vietnam” đầu tiên. Ngày 19-11-2013, PicoDragon có khối lượng 1kg đã được phóng thành công vào quỹ đạo từ Trạm vũ trụ quốc tế. Sau đó, Trạm mặt đất VNSC và các nơi trên thế giới cũng đã ghi nhận thành công tín hiệu liên lạc. Đây là cột mốc quan trọng, đánh dấu PicoDragon trở thành vệ tinh do Việt Nam tự phát triển đầu tiên hoạt động thành công trong không gian.

Sau vệ tinh PicoDragon, VNSC thực hiện chế tạo vệ tinh MicroDragon với khối lượng 50kg tại Nhật Bản. Tại đây, 36 kỹ sư của VNSC được cử đến 5 trường đại học hàng đầu Nhật Bản tham gia khóa học thạc sĩ công nghệ vũ trụ, đồng thời tham gia thiết kế, chế tạo, thử nghiệm vệ tinh MicroDragon dưới sự hướng dẫn trực tiếp của các giáo sư Nhật Bản. Thông qua dự án mang tính đột phá này, các kỹ sư Việt Nam không chỉ có cơ hội tiếp thu kiến thức cơ bản về công nghệ vệ tinh mà còn được trực tiếp tham gia thực hành chế tạo vệ tinh lớp micro (vệ tinh cỡ nhỏ), tích lũy kinh nghiệm trong quy trình phát triển vệ tinh. Vệ tinh MicroDragon được phóng lên quỹ đạo bằng tên lửa Epsilon 4 vào ngày 18-1-2019 tại bãi phóng Uchinoura (Nhật Bản) và đã kết nối thành công với trạm mặt đất.

Tiếp nối vệ tinh MicroDragon, từ năm 2017, VNSC đã nghiên cứu phát triển vệ tinh lớp nano dạng Cubesat 3U có tên NanoDragon nặng khoảng 4kg. Toàn bộ quá trình nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, tích hợp, thử nghiệm chức năng vệ tinh được thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam bởi các cán bộ nghiên cứu của VNSC. Vệ tinh NanoDragon được phát triển với mục đích chứng minh có thể dùng công nghệ chùm vệ tinh cỡ siêu nhỏ để thu tín hiệu nhận dạng tự động tàu thủy sử dụng cho mục đích theo dõi, giám sát phương tiện trên biển. Vệ tinh NanoDragon được thiết kế thử nghiệm công nghệ, chất lượng của hệ thống điều khiển và xác định tư thế vệ tinh. Ngày 9-11-2021, vệ tinh NanoDragon đã được phóng thành công lên vũ trụ.

Tiến sĩ Lê Xuân Huy, Phó tổng giám đốc VNSC-thành viên nhóm nghiên cứu cho biết, trong quá trình chế tạo vệ tinh NanoDragon, nhóm nghiên cứu gặp nhiều khó khăn bởi sản phẩm được phát triển trên cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế. Các thiết bị công nghệ phát triển vệ tinh còn khiêm tốn. Bên cạnh đó, công nghiệp phụ trợ cho ngành vũ trụ ở Việt Nam còn chưa phát triển. Việc mua thiết bị công nghệ cao về Việt Nam phải qua thủ tục xuất khẩu phức tạp do Quy định ITAR (Quy định về buôn bán vũ khí quốc tế) dẫn đến việc mua sắm gặp khó khăn, thậm chí một số thiết bị không thể mua được. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật dự kiến đầu tư theo Dự án Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, như: Trung tâm Nghiên cứu phát triển, Trạm mặt đất, thiết bị thử nghiệm vệ tinh... chưa được triển khai nên các thiết bị công nghệ để phát triển vệ tinh NanoDragon còn khá khiêm tốn. Để khắc phục những khó khăn này, nhóm nghiên cứu đã chủ động tìm kiếm, trao đổi với nhiều nhà cung cấp để tìm được sản phẩm phù hợp nhất về giá thành, công nghệ, ít ràng buộc về ITAR. Nhóm nghiên cứu cũng đã phối hợp với các công ty trong nước chế tạo sản phẩm, trực tiếp xuống nhà máy cùng công nhân gia công chế tạo bảo đảm yêu cầu chất lượng, tiết kiệm chi phí...

Làm chủ không gian vũ trụ để bảo vệ quyền lợi quốc gia

Một mục tiêu quan trọng của “Chiến lược phát triển và ứng dụng KHCN vũ trụ đến năm 2030” là Việt Nam cần làm chủ công nghệ và tiến tới tự sản xuất vệ tinh nhỏ. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, theo PGS, TS Phạm Anh Tuấn, ngành vũ trụ Việt Nam cần sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ để tăng cường khả năng phối hợp giữa các bộ, ngành, tránh đầu tư không đồng bộ, trùng lặp, thiếu hiệu quả. Cần có cơ chế quản lý đặc biệt cho các dự án đầu tư nghiên cứu phát triển công nghệ vũ trụ với độ rủi ro và mạo hiểm rất cao như chế tạo vệ tinh... Đầu tư dài hạn và đủ tầm để hiện thực hóa quá trình làm chủ công nghệ và chế tạo các vệ tinh “made in Vietnam”, tiến tới phát triển và hoàn thiện Hệ thống quan sát trái đất bằng vệ tinh của quốc gia.

Bên cạnh đó, cần có cơ chế ưu đãi đặc biệt cho đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực công nghệ vũ trụ, đặc biệt trong nghiên cứu chế tạo và sản xuất vệ tinh... Việt Nam cũng cần sớm tham gia các công ước của Liên hợp quốc về sử dụng khoảng không vũ trụ vì mục đích hòa bình, điều này có ý nghĩa quan trọng tương tự như việc Việt Nam đã tham gia Công ước của Liên hợp quốc về biển. Việt Nam cũng cần xác định không gian vũ trụ là một trong 5 không gian (vùng đất, vùng trời, vùng biển, không gian mạng và không gian vũ trụ) mà chúng ta cần làm chủ để bảo vệ quyền lợi quốc gia. Xây dựng chiến lược phát triển vũ trụ dài hạn với sự đầu tư có trọng điểm, tạo tiền đề cho phát triển bền vững ngành vũ trụ Việt Nam. 

TS Bùi Trọng Tuyên, Viện trưởng Viện Công nghệ vũ trụ cho rằng, để phát triển công nghệ vũ trụ, cần đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho công nghệ vũ trụ, không chỉ tập trung vào nguồn lực nhà nước. Để làm được điều đó, Nhà nước cần có chính sách miễn giảm thuế cho những doanh nghiệp tham gia lĩnh vực này, đồng thời Nhà nước vẫn tiếp tục đầu tư để làm chủ không gian vũ trụ. Cần xác định việc khai thác khoảng không vũ trụ để mang lại lợi ích lâu dài, còn hiện tại thì đầu tư lĩnh vực này chưa thể có ngay lợi nhuận.

LA DUY



Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Thời tiết

LIÊN KẾT WEBSITE