You are here

Tự chủ là đòi hỏi khách quan, xu thế phát triển của giáo dục đại học

Trên thế giới, mô hình đại học tự chủ được nhìn nhận là phương thức quản trị đại học tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo. Ở Việt Nam, tự chủ đại học đã có nhiều chuyển biến tích cực trong thời gian qua. Sự chuyển biến này xuất phát từ đòi hỏi khách quan, xu thế phát triển của giáo dục đại học và được thúc đẩy bởi chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước ta.

 

Đó là những đánh giá của đông đảo các chuyên gia, nhà quản lý giáo dục được đưa ra bàn thảo tại Hội nghị tự chủ đại học năm 2022, do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp Ủy ban Văn hóa-Giáo dục của Quốc hội tổ chức ngày 4/8, tại Hà Nội.

 

Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam dự Hội nghị. Tại Hội nghị, các chuyên gia, nhà quản lý sẽ tập trung thảo luận về: Chiến lược phát triển và hội nhập quốc tế; đổi mới quản trị đại học và quản lý Nhà nước; nguồn lực cho phát triển giáo dục đại học.

 

Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ quan quản lý Nhà nước đã thể hiện quyết tâm trong đẩy mạnh tự chủ; tiến hành xây dựng hệ thống văn bản triển khai tự chủ theo tinh thần của Luật số 34/2018/QH14 (Luật số 34) xây dựng được một số mô hình tự chủ hiệu quả, tạo tiền đề để triển khai sâu, rộng trên toàn hệ thống.

Bộ trưởng Giáo dục Đào tạo Nguyễn Kim Sơn phát biểu tại Hội nghị

 

 

Đáng chú ý, vai trò lãnh đạo của Đảng từ khi thực hiện tự chủ ngày càng tăng thêm. Đảng ủy nhà trường giữ vai trò lãnh đạo toàn diện, mọi mặt, đặc biệt là về mặt nguyên tắc.

 

Đến nay, cả nước có 154/170 cơ sở giáo dục đại học công lập đã thành lập hội đồng trường theo Luật số 34 và Nghị định 99 (đạt 90,6%); trong đó, việc thành lập hội đồng trường tại các trường trực thuộc các bộ, ngành, địa phương đạt tỷ lệ 91,18%. Theo kết quả khảo sát, trên 80% các trường triển khai tự chủ toàn diện, sâu rộng về tuyển sinh và đào tạo tạo nên các kết quả đạt được tích cực; hơn 65% các trường triển khai tự chủ toàn diện, sâu rộng về hoạt động khoa học và công nghệ.

 

Về tài chính, đến thời điểm hiện tại 32.76% trường đại học tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; 13.79% trường tự bảo đảm chi thường xuyên. Giảng viên thu nhập trên 200 triệu/năm tăng từ 19,4% lên 31,34%; thu nhập trên 300 triệu trở lên tăng từ 0,75% lên 5,97% sau 3 năm thực hiện tự chủ.

 

Về khoa học và công nghệ, số lượng bài báo quốc tế trong danh mục Web of Science (WoS) tăng thêm 3,5 lần sau 4 năm; số bài báo trong danh mục SCOPUS của các cơ sở giáo dục đại học tăng thêm hơn 4 lần. Sản phẩm của các đề tài, dự án, chương trình khoa học công nghệ cấp bộ của các đơn vị trực thuộc Bộ đã tăng đáng kể trong các năm qua, trung bình 25%/năm. Một số cơ sở giáo dục đại học đã gặt hái được thành công thông qua kết quả về xếp hạng đại học ở các tổ chức xếp hạng uy tín trên thế giới.

 

Năm 2022, Tổ chức giáo dục Quacquarelli Symonds (QS) công bố Bảng xếp hạng các trường đại học theo lĩnh vực, thì lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ, Việt Nam có 5 đại học được xếp hạng cao trong tốp 500 thế giới. Theo Bảng xếp hạng Times Higher Education, lĩnh vực Kinh doanh và kinh tế, Việt Nam có hai đại diện; lĩnh vực khoa học-xã hội, Việt Nam có ba đại diện...

 

Các cơ sở giáo dục đại học tự chủ đã chủ động rà soát, kiện toàn lại tổ chức bộ máy và nhân sự theo hướng tinh gọn, hiệu quả; đẩy mạnh quá trình xã hội hóa giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm đáp ứng đầy đủ hơn điều kiện giảng dạy và nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng. Trách nhiệm giải trình đã đẩy mạnh việc quy định các cơ sở giáo dục đại học phải thực hiện công khai, minh bạch; hệ thống cơ sở dữ liệu để cơ quan quản lý nhà nước giám sát cũng đang được triển khai...

 

Tuy nhiên, tự chủ đại học hiện nay cũng còn vướng mắc do sự thiếu đồng bộ giữa các Luật, nhất là những vướng mắc về hành lang pháp lý, khó khăn cho việc triển khai khoa học và công nghệ. Mặt khác, nguồn kinh phí hạn hẹp, ngân sách cấp chưa tương xứng với chủ trương của Đảng và Nhà nước về ưu tiên đầu tư cho giáo dục. Những hạn chế của hoạt động liên kết đào tạo với nước ngoài; phân cấp, phân quyền và thực hiện quy chế dân chủ của các trường... cũng là những bất cập trong tự chủ đại học hiện nay.

Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn cho biết, cơ sở giáo dục đại học hoạt động với tính tự chủ tự chịu trách nhiệm cao là mô hình và cơ chế phổ biến trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, quá trình thực hiện tự chủ đại học là một phần của quá trình đổi mới, hiện đại học và quốc tế hóa giáo dục đại học. Đặc biệt trong mấy năm thực hiện Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật giáo dục Đại học, nhiều cơ sở giáo dục đại học đã và đang chuyển đổi dần về cơ chế, từng bước thực hiện quyền chủ động của mình và nhờ đó năng động hơn, năng lực cạnh tranh tốt hơn, cả hệ thống có những chuyển biến mạnh mẽ.

 

“Có thể nói, luồng sinh khí mạnh mẽ đã đã xuất hiện từ bên trong của hệ thống, thúc đẩy các cơ sở giáo dục đại học phát triển. Giá trị và phương diện tích cực của tự chủ đại học là rõ ràng, hiển nhiên, không thể phủ nhận được”, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn khẳng định.

 

Tuy nhiên, tự chủ đại học là một cơ chế phức tạp cần đồng bộ của nhiều yếu tố, nhiều khâu, nhiều hoạt động vì vậy trong quá trình triển khai thời gian qua vẫn còn những vướng mắc, bộc lộ những hạn chế, khó khăn. Trong đó, có cả những vấn đề nảy sinh từ các điều kiện thực hiện tự chủ trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế của Việt Nam trong hơn 30 năm qua.

 

Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn, hội nghị tập trung bàn về những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện tự chủ đại học; xác định các vấn đề, các yêu cầu, các công việc cần làm tiếp trong thời gian tới...

 

XUÂN KỲ

 

 



Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Thời tiết

LIÊN KẾT WEBSITE